Ngô Quyền sinh năm 899, quê ở xã Đường Lâm, tỉnh Sơn Tây. Tương truyền khi ông sinh có ánh sáng lạ khắp nhà. Lớn lên, với sức khoẻ phi thường và tài mưu lược, ông làm nha tướng và là rể Dương Diên Nghệ. Ông được Diên cử đi giữ châu Ái.
Năm 938, khi Kiều Công Tiễn phản bội, giết Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền kéo quân từ châu Ái ra hỏi tội. Kiều Công Tiễn đê hèn cầu cứu vua Nam Hán. Sẵn có dã tâm xâm lược, vua Nam Hán sai con trai mang thuỷ quân sang. Ngô Quyền ra Sơn Nam Thượng, đóng đại bản doanh ở vùng phố Vương (nay là phố Giác, thị trấn Vương, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên). Ông cùng Phạm Bạch Hổ bắt giết Kiều Công Tiễn cùng đồng đảng. Khi được tin Hoằng Thao sắp vượt biển vào nước ta, ông cùng các tướng nghiên cứu con nước sông Bạch Đằng để đại phá thuỷ quân Hoằng Thao.
Ngô Quyền cho khai sông, đắp lộ, lập bến thuyền chiến ở Hải Yến và trại thuỷ quân ở Triều Dương, đóng thuyền, rèn vũ khí, bịt sắt nhọn ở đầu cọc, cắm thành bãi ở cửa sông Bạch Đằng. Khi quân giặc kéo vào là lúc nước triều lên, chúng không hề hay biết. Ngô Quyền sai thuyền nhẹ ra đánh nhử, dụ giặc tiến sâu vào bãi cọc ngầm. Đợi khi thuỷ triều xuống mạnh, các thuyền chiến của ta từ sông lạch đổ ra đánh, phối hợp với quân bộ bắn cung tên. Quân Nam Hán đại bại, tàn quân tháo chạy về nước.
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương. Sau khi mất, ông được nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi trong nước. Một trong số đó là đền Vương.
(Dựa theo: Vũ Tiến Kỳ (sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn), Truyện kể dân gian Hưng Yên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2010, tr. 364-366)